Trồng rừng gỗ lớn trong nhiều năm qua được bà con dân cày ở các tỉnh miền Trung chú trọng phát triển, do vậy, đã mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, cũng còn một số bà con lại cốt tử tụ hợp vào “bán non” nên lợi ích kinh tế không cao, hiệu quả sử dụng đất thấp.
Do đó, cần phải thay đổi tư duy cho bà con trồng rừng gỗ lớn để nâng cao hiệu quả sử dụng đất rừng, tạo sinh kế vững bền cho nhiều người, đảm bảo ích lợi kinh tế cho người trồng rừng, tăng giá trị bảo vệ môi trường và mang đến nhiều ích khác.
Tâm lý sợ rủi ro, muốn thu hồi vốn nhanh nên “bán non”
Trong khi rất nhiều bà con trồng rừng ở các tỉnh miền Trung chú trọng vào việc trồng rừng gỗ lớn, để có thu nhập cao, tăng giá trị môi trường và mang đến nhiều lợi ích khác, thì một số bà con trồng rừng ở Hà Tĩnh đã và đang chủ yếu "bán non" cây keo tràm phục vụ chế biến gỗ băm dăm khi lợi. kinh tế không cao, hiệu quả sử dụng đất thấp.
Người dân Vũ Quang khai phá rừng trồng bán gỗ băm dăm khi cây keo tràm mới trồng được gần 5 năm.
Anh Trần Văn Trình ở thôn 6, xã Thọ Điền (Vũ Quang) có 27 ha đất rừng sinh sản. Đây là nguồn tư liệu sản xuất rất lớn, nhưng hơn 20 năm nay, anh vẫn độc canh cây keo tràm, trồng với chu kỳ ngắn (5 – 6 năm/chu kỳ) để bán xay gỗ băm dăm.
Anh Trình chia sẻ: “Tôi đã từng nghĩ đến việc chọn lựa một số nơi trồng keo tràm trên 10 – 12 năm/chu kỳ, có đường kính từ 100 – 130 cm để bán gỗ (2,5 – 3 triệu đồng/cây, mật độ khoảng 900 - 1.000 cây/ha) hoặc để dành cho con cháu sau này. Song, vì trên địa bàn chưa có phong trào trồng rừng gỗ lớn, sợ rủi ro, muốn thu hồi vốn nhanh... nên cứ thấy được giá là bán. Vì bán cây non, hiệu quả kinh tế mang lại không cao, sản xuất cầm chừng, không có bước đột phá”.
Ông Đặng Khánh Trình – bí thơ Đảng ủy xã Thọ Điền cho biết: “Địa phương đang có 3.200 ha rừng sản xuất nhưng đều trồng keo vật liệu, không có gia đình nào trồng rừng gỗ lớn hay cây bản địa. Vì sức ép kinh tế, lại sẵn có doanh nghiệp thu mua liên tiếp nên bà con cốt yếu bán keo non. Bán keo xay băm dăm chỉ giải quyết được vấn đề thu nhập, việc làm trước mắt chứ chưa thể khai khẩn tối đa lợi thế về đất rừng, không tạo được chuyển biến trong sản xuất và bảo đảm các giá trị sản xuất khác”.
Theo ông Võ Quốc Hội – Phó phòng NT&PTNT huyện Vũ Quang: “Toàn huyện có hơn 14.000 ha rừng sản xuất - trồng keo tràm nguyên liệu. Dù đã được vận động, khuyến khích, lồng ghép các chương trình dự án, tổ chức đi tham quan học tập... nhưng hồ hết diện tích đất lâm nghiệp đều đang trồng keo băm dăm, chưa có gia đình nào trồng keo gỗ lớn. Hiện, chúng tôi đang xây dựng chương trình, kế hoạch trồng rừng gỗ lớn, theo tiêu chuẩn quốc tế FSC để tạo bước đột phá trong sản xuất”.
Anh Nguyễn Văn Dương ở xã Cẩm Thịnh (Cẩm Xuyên) san sớt: “Bình quân mỗi ha keo tràm phải đầu tư hết khoảng 17 – 20 triệu đồng/5 năm. Nếu tiện lợi, không bị thiên tai, không bị cháy rừng thì đến thời khắc khai thác sẽ bán được 45 – 65 triệu đồng/ha/chu kỳ. Sau khi trừ chi phí đầu tư, người trồng chỉ thu về khoảng 35 – 45 triệu đồng. Nguồn thu này là thấp so với tiềm năng của đất rừng cũng như mặt bằng của sinh sản chung”.
Ông Lê Hữu Tuấn – Trưởng phòng sử dụng và Phát triển rừng (Chi cục Kiểm lâm Hà Tĩnh) cho biết. Do nhiều căn nguyên khác nhau nên Hà Tĩnh chưa có phương án, kế hoạch trồng các loại cây khác để thay thế cây keo nguyên liệu. Việc trồng rừng gỗ lớn, theo chứng chỉ FSC, trồng cây bản địa ở rừng sản xuất... dù đã được khuyến khích nhưng đang gặp khó khăn".
Hiệu quả từ trồng rừng gỗ lớn ở Nghệ An
Khác với Hà Tĩnh, người trồng gỗ lớn ở Nghệ An ngày một chú trọng trồng và chăm chút đúng với quy trình kỹ thuật, mua giống cây lâm nghiệp có chất lượng cao để mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định cuộc sống.
Rừng quế hơn 4ha ở bản Na Hứm, xã Thông Thụ, huyện Quế Phong của anh Ngân Văn Tuấn.
Anh Hoàng Văn Hùng, ở bản Xóm Mới, xã Châu Phong (huyện Quỳ Châu) nhòm, đối với đặc thù sống ở miền núi thì việc trồng, săn sóc rừng sẽ mang lại hiệu quả vững bền hơn so với các nghề khác.
Nghĩ là làm, ngoài việc vẫn duy trì những nghề để “lấy ngắn nuôi dài” thì anh Hùng đã tích cóp và vay thêm để mua một số diện tích đất để tiến hành trồng rừng. sang nhiều năm vắt, đến nay tổng số diện tích đất trồng keo vật liệu của anh đã lên đến hơn 30 héc ta.
Sau một chu kỳ trồng ban sơ mình đã trồng được hàng chục héc ta rừng và đến nay cây giống phát triển rất tốt, đã phủ xanh đất trống đồi trọc”. Cũng theo anh Hùng, những diện tích rừng anh trồng sẽ được “để giành” để thành rừng cây gỗ lớn, khi đó hiệu quả kinh tế sau khi thu hoạch sẽ cao hơn nhiều lần.
Cũng tư duy như anh Hùng nhưng lại đi theo hướng khác đôi chút. Đó là nhiều hộ dân ở các xã vùng biên Quế Phong như Thông Thụ, Đồng Văn, Tiền Phong… Người dân ở đây lại chú trọng trồng cây quế bản địa (Quế Quỳ đặc sản).
Anh Ngân Văn Tuấn, người đang sở hữu khoảng 1 vạn cây quế trên diện tích hơn 4 ha ở bản Na Hứm, xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, cho biết: “Sau khi vào tái định cư tại bản Na Hứm từ Dự án thủy điện Hủa Na, tôi bắt đầu trồng cây quế từ năm 2004. Lúc đó, giá doanh nhân thu mua quế đã bắt đầu tăng, hơn nữa bản thân tôi nghĩ cây quế là loài cây bản địa. Từ thời tổ tông đều trồng cây quế, đất vùng này rất hợp nên quế phát triển rất tốt. Tương lai sẽ rất đáng chờ đợi…”.
Ông Lê Xuân Đình – Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Quỳ Châu, cho hay: Quỳ Châu có diện tích rừng trồng hơn 24.000 ha. Điều kiện thổ nhưỡng thuận tiện trong công tác phát triển rừng trồng. Các chính sách của quốc gia, như Đề án giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng thực quyền dùng đất thời đoạn 2018 - 2021, kéo dài đến 2023; sự hỗ trợ đầu tư của Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và Chương trình đích Quốc gia phát triển kinh tế - tầng lớp vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Trồng rừng gỗ lớn tạo sinh kế vững bền cho người trồng rừng
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực lâm nghiệp, khi thực hành sinh sản theo hướng trồng rừng gỗ lớn, trồng rừng theo tiêu chuẩn quốc tế FSC, trồng cây bản địa mới có thể tạo được những bước đột phá trong sản xuất lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả dùng đất rừng, tạo sinh kế vững bền cho nhiều người, bảo đảm ích kinh tế cho người trồng rừng, tăng giá trị bảo vệ môi trường và mang đến nhiều lợi ích khác.
Những rừng keo tràm lâu năm cho giá trị kinh tế cao, nhưng lại còn rất ít ở Gia Phố, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh)
Tại Hội thảo “Trồng rừng gỗ lớn, quản lý và phát triển rừng, nông lâm phối hợp, đa dạng sinh học thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) và sinh kế bền vững”, ông Mai Bắc Mỹ, Giám đốc Chương trình FFF II khẳng định, Việt Nam đang cùng với các Quốc gia, cộng đồng quốc tế nắm thực hiện các đích Phát triển vững bền, Thỏa thuận Paris về BĐKH, Thập kỷ của LHQ về khôi phục hệ sinh thái, Công ước LHQ về Đa dạng sinh vật học… với mục tiêu liên kết, hiệp tác giải quyết các thách thức toàn cầu, cụ cùng hành động nhằm xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường và khí hậu địa cầu, đảm bảo cho mọi người ở khắp mọi nơi có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh, hạnh phúc và thịnh vượng.
Theo đó, từ năm 2015, HND Việt Nam là tổ chức đối tác chính thực hiện Chương trình hỗ trợ rừng và nông trại (FFF) giai đoạn I tại Việt Nam và nối thực hiện Chương trình FFF tuổi II từ 2019 đến nay. mục tiêu chính của Chương trình là các tổ chức của người sinh sản rừng và nông trại (FFPO) trong đó có nữ giới, thanh niên và người dân tộc thiểu số trở nên các tác nhân đổi thay chủ yếu đối với cảnh quan chống chịu biến đổi khí hậu và cải thiện sinh kế cho người dân địa phương.
Chương trình FFF đang được thực hành tại các tỉnh Yên Bái, Bắc Kạn, Hòa Bình, Sơn La, Thái Nguyên với đích nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh rừng và trang trại, tiếp cận thị trường và tài chính cho các THT, HTX, vận dụng các biện pháp giảm thiểu, thích ứng với BĐKH, tiếp cận các dịch vụ các giá trị văn hóa bản địa.
Cũng theo ông Mai Bắc Mỹ, tính đến nay, Chương trình đang hỗ trợ 51 THT, HTX ở 05 tỉnh, với hơn 1.000 hộ thành viên chính thức (41,5% nữ, 61,5% người dân tộc, 11,7% thanh niên) và gần 2.000 hộ thành viên kết liên, hơn 15.000 dân cày sinh sản nông lâm nghiệp và cán bộ HND Việt Nam đã và đang được hưởng lợi từ Chương trình; 15 chuỗi sản phẩm được kết nối thị trường, doanh nghiệp; hơn 600ha chuyển hóa rừng gỗ lớn và trồng rừng gỗ lớn; hơn 13.000 ha gỗ có chứng chỉ QLRBV; hơn 4000 ha sản phẩm quế, hồi, thảo dược, bí xanh thơm, gạo, rau quả, cam, bưởi, gừng… đã được chứng thực hữu cơ và đủ tiêu chuẩn xuât khẩu…
Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp Triệu Văn Lực nhấn mạnh, cần phát huy tiềm năng, lợi thế đất đai, loài cây phù hợp với điều kiện sinh thái của các địa phương để phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn, nâng cao năng suất chất lượng rừng gắn với quản lý rừng vững bền và chứng chỉ rừng; cung cấp nguyên liệu hợp pháp có chất lượng cho chế biến, tăng thu nhập cho người trồng rừng. sử dụng hiệu quả kinh phí tương trợ của ngân sách quốc gia; đẩy mạnh tầng lớp hóa đầu tư vào phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn theo các cơ chế, chính sách về lâm nghiệp, đất đai, tín dụng, thuế, thị trường, hiệp tác liên kết sinh sản và tiêu thụ sản phẩm.
Theo báo Hà Tĩnh, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam; báo Tài nguyên Môi trường
>>> Nguồn: http://marketing-center.net/doi-thay-tu-duy-trong-rung-go-lon-de-dat-hieu-qua-kinh-te-cao-23078.html